Thiết giáp tiền Dreadnoughts Danh_sách_thiết_giáp_hạm_của_Nhật_Bản

Lớp Fuji

Fuji tại cảng, c. 1908

Hai tàu Fuji và Yashima thuộc lớp thiết giáp hạm Fuji (富士型戦艦 (Phú Sĩ hình chiến hạm), Fuji-gata senkan?), là thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Chúng được đặt hàng để đáp trả hai tàu chiến bọc sắt mới của Trung Quốc do Đức chế tạo. Hai tàu lớp Fuji được thiết kế như một phiên bản nhỏ hơn của lớp Royal Sovereign của Anh với trọng tải choáng nước nhỏ hơn ở mức 12.230–12.533 tấn Anh (12.426–12.734 t) và dài 412 foot (126 m). Chúng được bảo vệ bởi 14–18 in (356–457 mm) giáp đai Harvey và được trang bị bốn pháo chính 12 inch (305 mm)/40 li,[14] mười sáu khẩu 6 inch (152 mm),[15] hai mươi bốn khẩu Hotchkiss 3 pounder, và năm ống phóng ngư lôi.[16] Hai động cơ Humphrys Tennant hơi nước giãn nở ba khoang đặt dọc với mỗi động cơ quay một trục chân vịt, cho phép lớp thiết giáp hạm này của Nhật Bản đạt vận tốc tối đa 18,25 kn (33,80 km/h; 21,00 mph).[17]

Cả hai chiếc Fuji được bắt đầu đóng vào nửa sau năm 1894,[18] nhưng Yashima đã hoàn thành và đưa đến Nhật Bản một năm trước chiếc Fuji [19] lúc đó đang tham dự cuộc duyệt binh hạm đội Kỉ niệm 60 năm trị vì của Victoria của Anh vào ngày 26 tháng 6 năm 1897.[20] Là một phần của Đệ nhất Hạm đội cả hai chiếc trong lớp đã tham gia chiến đấu tại cảng Arthur vào ngày 9-10 tháng 3 năm 1904 mà trong đó Fuji bị thiệt hại nhẹ và Yashima không bị hư hại.[21] Tiếp đến là giao tranh vào ngày 13 tháng 4 dẫn đến việc đánh chìm thiết giáp hạm Petropavlovsk của Nga.[22] Vào ngày 15 tháng 5 năm 1904, Yashima đâm phải hai quả mìn và chìm tại chỗ, để lại Fuji là tàu lớp Fuji duy nhất còn lại.[15] Vào tháng 8, nó tiếp tục tham gia trận Hoàng Hải mà không bị thiệt hại và sau đó là trận Tsushima[23] vào tháng 5 năm 1905, nơi nó được ghi nhận đã bắn phát súng gây ra vụ nổ kho đạn phá hủy chiếc Borodino và một lần nữa chỉ bị hư hại nhẹ.[24] Vào ngày 23 tháng 10 năm 1908, Fuji đã tiếp đón đại sứ Mỹ tại Nhật Bản và một số sĩ quan cao cấp của Đại Bạch Hạm Đội (Great White Fleet),[25] rồi được chuyển xuống thành một tàu phòng thủ ven biển, sau đó bị giải giáp hoàn toàn, cho đến khi bị máy bay Mỹ đánh chìm vào ngày 18 tháng 7 năm 1945 và bị tháo dỡ 1948.[26]

TàuVũ khíGiápTrọng tải choáng nướcĐộng cơ đẩyPhục vụ
Đặt lườnĐưa vào biên chếSố phận
Fuji

(富士 Phú Sĩ)

2 x 2

12 in (305 mm)[27]

16 in

(460 mm)[16]

12.533 tấn Anh (12.734 t)[15]2 trục, 2 động cơ hơi nước,

18,25 kn (33,80 km/h; 21,00 mph)[28]

1 tháng 8

năm 1894[29]

17 tháng 8

năm 1897[18]

Tháo dỡ, năm 1948[18]
Yashima

(八島 Bát Đảo)

6 tháng 12

năm 1894[30]

9 tháng 9

năm 1897[18]

Chìm sau khi dính mìn,

15 tháng 5 năm 1904[15]

Lớp Shikishima 

Shikishima năm 1905

Hai tàu Shikishima và Hatsuse thuộc lớp thiết giáp hạm Shikishima (敷島型戦艦 (Phu Đảo hình chiến hạm), Shikishima-gata senkan?) được thiết kế như một phiên bản mạnh mẽ hơn của Thiết giáp hạm lớp Majestic của Hải quân Hoàng gia Anh và được đóng ở Anh.[31] Giống như lớp Majestic và Fuji, lớp Shikishima được trang bị bốn súng chính 12 inch (305 mm)/40 li,[32] mười bốn khẩu súng 6 inch (152 mm),[33] hai mươi khẩu súng 12-pounder, bốn khẩu Hotchkiss 3 pounder, và bốn ống phóng ngư lôi.[34] Lớp Shikishima cũng sử dụng hai động cơ Humphrys Tennant hơi nước giãn nở ba khoang đặt dọc với hai trục chân vịt để đạt được vận tốc tối đa 18 kn (33 km/h; 21 mph). Các chiếc Shikishima được bảo vệ bởi lớp giáp đai Harvey dày 4–9 inch (102–229 mm), tương đương một nửa của lớp Fuji.Thiết kế dài 126m và có trọng tải choáng nước 14.850–15.000 tấn Anh (15.090–15.240 t).[35]

Shikishima hoàn thành vào ngày 26 tháng 6 năm 1900 và ngay lập tức rời Anh về Nhật Bản, nhưng Hatsuse ở lại Anh sau khi hoàn thành vào ngày 18 tháng 1 năm 1901 để đại diện cho Thiên Hoàng Minh Trị tại tang lễ của Victoria của Anh.[36][37] Được chỉ định vào Đệ nhất Hạm đội trước Chiến tranh Nga-Nhật,cả hai tàu đã có mặt trong Trận chiến cảng Arthur và đã bị dính tổng cộng ba phát đạn. Cả hai chiếc cũng có mặt để chứng kiến sự phá hủy của Kỳ hạm Petropavlovsk dưới sự chỉ huy của đô đốc Nga Makarov,[38] nhưng Hatsuse đã đâm phải một trong những quả mìn mà người Nga đặt sau cái chết của Makarov và bị chìm sau khi bị nổ kho đạn.[39] Shikishima tiếp tục là tàu duy nhất còn lại trong lớp, tàu đã chiến đấu trong Trận Hoàng Hải chỉ bị hư nhẹ khi một viên đạn 12 inch không khai hỏa đúng cách.[40] Shikishima sau đó tham gia Trận Tsushima vào ngày 27 tháng 28 năm 1905, nó bị dính đạn chín lần, phải chịu một phát khai hỏa không đúng cách lần nữa nhưng nó đã đánh chìm thiết giáp hạm Oslyabya của Nga khi phối hợp với tàu Mikasa.[41] Shikishima đã trải qua thời gian Chiến tranh thế giới thứ nhất tại Vùng hải quân Sasebo [42] và được phân loại lại hai lần sau khi Hiệp ước Hải quân Washington được ký vào năm 1922.[36] nó được sử dụng như một tàu huấn luyện tại Sasebo cho đến năm 1948, khi nó bị tháo dỡ.[43]

TàuVũ khíGiápTrọng tải choáng nướcĐộng cơ đẩyPhục vụ
Đặt lườnĐưa vào biên chếSố phận
Shikishima

(敷島, Phu Đảo)

2 x 2

12 in (305 mm)[32]

9 in (230 mm)[44]14.850 tấn Anh (15.090 t)[34]2 trục, 2 động cơ hơi nước,

18 kn (33 km/h; 21 mph)[34]

29 tháng 3

năm 1897

26 tháng 1

năm 1900

Bị tháo dỡ, tháng 1 năm 1948[43]
Hatsuse

(初瀬, Sơ Lai)

10 tháng 1

năm 1898

18 tháng 1

năm 1901

Chìm sau khi va phải hai trái mìn[36]

15 tháng 5 năm 1904

Asahi

Asahi - Tháng 6, 1900

Thiết giáp hạm Asahi (朝日型戦艦 (Triêu Nhật hình chiến hạm), Asahi-gata senkan?) được đóng vào những năm 1890 là phiên bản sửa đổi của thiết giáp hạm lớp Formidable của Anh,[42] với trọng tải choáng nước 15.200 tấn Anh (15.400 t). Cũng như các thiết giáp hạm trước của Nhật Bản, Asahi dài 425 foot 3 inch (130 m) cũng sử dụng hai động cơ Humphrys Tennant hơi nước giãn nở ba khoang đặt dọc với hai trục chân vịt cho tốc độ tối đa 18 kn (33 km/h; 21 mph).[36] Giống các thiết giáp hạm trước của Nhật, nó được trang bị bốn khẩu pháo chính 12 inch (305 mm)/40 li,[32] mười bốn khẩu súng 6 inch (152 mm),[36] hai mươi khẩu súng 12-pounder,[45] tổng cộng mười hai khẩu Hotchkiss 3 pounder,[46] và bốn ống phóng ngư lôi. [42] Asahi cũng sử dụng giáp đai Harvey dày 4–9 inch (102–229 mm) y chang lớp Shikishima.[32][47]

Sau khi hoàn thành, Asahi đến Yokosuka vào ngày 23 tháng 10 năm 1900 và năm sau, nó trở thành kỳ hạm của Hạm đội Thường trực của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và sau đó được đưa vào Đệ nhất Hạm đội khi Hạm đội liên hợp được tái thành lập vào ngày 23 tháng 12 năm 1903.[48][49] Khi bắt đầu Chiến tranh Nga-Nhật, Asahi đã tham gia Trận chiến cảng Arthur và giúp tiêu diệt thiết giáp hạm Petropavlovsk của Nga mà không bị hư hại trong cả chiến dịch. Trong trận Hoàng Hải, Asahi bị hư hại vừa nhưng làm gây thương tích cho chiếc PoltavaTsesarevich.[50] Sau đó hai tháng, Asahi đâm phải mìn gần cảng Arthur, nhưng đã được sửa chữa kịp thời cho Trận Tsushima. Ở đó, nó đã giúp vô hiệu hóa chiếc Knyaz Suvorov và đấu tay đôi với cả BorodinoOryol mà không thiệt hại gì.[51]

Nó đóng vai trò là một tàu huấn luyện bắn pháo trong hầu hết Thế chiến thứ nhất cho đến khi được tái trang bị vào năm 1917 để hộ tống các đoàn tàu vận tải trong sự can thiệp của Nhật Bản vào cuộc Nội chiến Nga.[36] Asahi sau đó một lần nữa được trang bị lại thành một con tàu không chiến đấu trong những năm 1920 và sau đó chuyển thể thành tàu sửa chữa vào ngày 16 tháng 8 năm 1937,[49] kiêm vận tải cho lục quân Đế quốc Nhật đến Vịnh Hàng Châu. Vào đêm 25-26 tháng 5 năm 1942, Asahi bị tàu ngầm Mỹ USS Salmon phóng ngư lôi và đánh chìm ngoài khơi Đông Dương.[48]

TàuVũ khíGiápTrọng tải

choáng nước

Động cơ đẩyPhục vụ
Đặt lườnĐưa vào biên chếSố phận
Asahi
(朝日, Triêu Nhật)
2 x 2

12 in (305 mm)[32]

9 in (229 mm)[47]15.200 tấn Anh (15.400 t)[36]2 trục, 2 động cơ hơi nước,

18 kn (33 km/h; 21 mph)[52][36]

1 tháng 8

năm 1897

31 tháng 7

năm 1900

Đánh chìm bởi USS Salmon,

25-26 tháng 5 năm 1942[48]

Mikasa

Tàu bảo tàng Mikasa, 2010Mikasa, năm 1905

Thiết kế của thiết giáp hạm Mikasa (三笠型戦艦 (Tam Lạp hình chiến hạm), Mikasa-gata senkan?) cũng là phiên bản sửa đổi của thiết giáp hạm lớp Formidable của Anh. [42] nó có chiều dài 132 mét (432 feet)[36], và trang bị cùng loại pháo chính 12 inch (305 mm)/40 li được sử dụng trên lớp Formidable và tất cả các thiết giáp hạm Nhật trước đó. Khác với các thiết giáp hạm trước, Mikasa sử dụng giáp Krupp cường lực với độ dày 4–9 inch (102–229 mm) ở thành tàu. Mikasa vẫn sử dụng thiết kế hai động cơ với hai trục nhưng lại được trang bị nồi hơi mới cho phép nó đạt được tốc độ 18,45 kn (34,17 km/h; 21,23 mph). Giống Asahi, Mikasa mang hơn lớp Formidable hai khẩu pháo phụ 6 inch (152 mm) với tổng cộng là 14 khẩu. Tổng lại, chiếc Mikasa có trọng tải choáng nước 15.140 tấn Anh (15.380 t).[53]

Mikasa được hoàn thành vào ngày 1 tháng 3 năm 1902.[54] Khi cuộc Chiến tranh Nga-Nhật nổ ra, nó nằm trong Chiến đội thiết giáp thứ nhất thuộc Đệ nhất Hạm đội với vai trò là kỳ hạm của toàn thể Hạm đội Liên hợp dưới sự chỉ huy của Đô đốc Tōgō Heihachirō.[55] Mikasa giúp đánh chìm chiếc Petropavlovsk sau trận cảng Arthur và gây thương tích cho chiếc PoltavaTsesarevich trong trận Hoàng Hải.[55] Trong trận Tsushima, với vai trò kỳ hạm, Mikasa đã dẫn đầu đoàn tàu chiến bên Nhật và cũng là tàu hứng chịu phần lớn đòn tấn công của hạm đội Nga với khoảng 10 đòn từ pháo 12-inch và 22 đòn từ pháo 6-inch nhưng không bị thương tích nặng.[56] Sáu ngày sau hiệp ước hòa bình được ký kết, Mikasa bị chìm tại cảng sau khi kho đạn tự phát nổ làm tử vong 251 thuyền viên. Nó được mang về Sasebo để sửa chữa và nâng cấp.[57]

Khi Hiệp ước Hải quân Washington đang được đàm phán, phái đoàn Nhật đã cố bảo toàn nó bằng việc biến nó thành một tàu bảo tàng và đóng xi măng nó ở Yokosuka nhằm không bị bắt phá hủy theo điều khoản hiệp định. Khi nước Nhật bị chiếm đóng bởi quân Đồng Minh sau Thế chiến thứ II, bảo tàng bị bỏ hoang và trở nên hoang tàn cho đến năm 1955 khi doanh nhân người Mỹ John Rubin viết báo cáo tình trạng chiếc Mikasa đăng lên báo Japan Time.[58] Nó đã khởi đầu cho chiến dịch phục hồi với sự ủng hộ của công chúng Nhật và Đô đốc Mỹ Chester W. Nimitz, một người hâm mộ của đô đốc Togo, và công cuộc phục hồi hoàn thành vào năm 1961.

TàuVũ khíGiápTrọng tải

choáng nước

Động cơ đẩyPhục vụ
Đặt lườnĐưa vào biên chếSố phận
Mikasa

(三笠, Tam Lạp)

2 x 2

12 in (305 mm)[32]

9 in (229 mm)[45]15.140 tấn Anh (15.380 t)[36]2 trục, 2 động cơ hơi nước,

18,45 kn (34,17 km/h; 21,23 mph)[53]

24 tháng 1

năm 1899

1 tháng 3

năm 1902

Được bảo quản ở dạng

tàu bảo tàng[59]

Tango

Tango tại cảng, năm 1908-09

Tango ban đầu là thiết giáp hạm Poltava (tiếng Nga: Полтава) của Nga, là chiếc thứ hai trong số ba chiếc thiết giáp hạm tiền-Dreadnought lớp Petropavlovsk. Con tàu được điều vào Hải đội Thái Bình Dương ngay sau khi hoàn thành và đóng quân tại cảng Arthur từ năm 1901.[60]

Trong cuộc Chiến tranh Nga-Nhật, nó đã tham gia Trận chiến cảng Arthur và bị hư hại nặng nề trong Trận Hoàng Hải. [61][62] Bị pháo binh Nhật Bản đánh chìm trong Cuộc vây hãm cảng Arthur sau đó vào tháng 12 năm 1904, nó đã bị Hải quân Nhật vớt lên sau chiến tranh và sau đó đổi tên thành Tango.[63][64]

Trong Thế chiến thứ nhất, Nó tham gia pháo kích công sự của Đế quốc Đức trong trận Thanh Đảo.[65] Năm 1916, Chính phủ Nhật bán lại chiếc Tango cho Nga. Nó được đổi tên lại thành Chesma (Чесма) vì tên cũ của nó đã được đặt cho tàu khác.[64][66] Thủy thủ đoàn của chiếc Chesma tuyên bố đi theo lực lượng Bolshevik[67] vào tháng 10 năm 1917 nhưng con tàu thì không tham chiến cuộc nội chiến Nga do điều kiện xuống cấp. Con tàu cuối cùng bị tháo dỡ năm 1924.[66][68]

TàuVũ khíGiápTrọng tải choáng nướcĐộng cơ đẩyPhục vụ
Đặt lườnĐưa vào biên chếSố phận
Tango

(丹後, Đơn Hậu)

2 x 2

12 in (300 mm) [69]

12–14,5 in (300–370 mm)

Giáp Krupp[69]

11.500 tấn Anh (11.700 t)[69]2 trục, 2 động cơ hơi nước,

16 kn (30 km/h; 18 mph)[69]

19 tháng 5

năm 1892[70]

2 tháng 1

năm 1905[71]

Trao trả cho Nga, năm 1916,[72]

Tháo dỡ, năm 1924[66]

Sagami và Suwo

Sagami, khi còn trong hải quân Nga dưới tên Peresvet, 1901

Sagami và Suwo ban đầu là hai thiết giáp hạm Peresvet (Пересвет) và Pobeda (Победа) thuộc lớp Peresvet của Hải quân Nga.[73] Lớp Peresvet được thiết kế để đối phó thiết giáp hạm hạng hai lớp Centurion của Anh. Thiết kế lớp Peresvet được giao vai trò bảo vệ tàu các tuần dương bọc thép tấn công thương mại của Nga như chiếc RossiaRurik khỏi các tàu hạng nặng như lớp Centurion nói trên.[74]

Cả hai tàu đều bị đánh chìm trong Cuộc vây hãm cảng Lữ Thuận nhưng được Hải quân Nhật trục vớt sau khi họ chiếm được cảng. Do vũ khí hạng nhẹ hơn của chúng so với các thiết giáp hạm bắt được còn lại, chúng được chỉ định thành tàu phòng thủ ven bờ.[75]

Trong Thế chiến thứ Nhất, chiếc Sagami được bán lại cho Nga và nó được đặt lại tên cũ là Peresvet. Vào ngày 4 tháng 1 năm 1917, Con tàu đang trên đường về châu Âu thì bị dính mìn Đức tại Ai Cập và chìm tại chỗ.[76] Chiếc Suwo thì đóng vai trò là kỳ hạm của hạm đội tấn Thanh Đảo thuộc Hạm đội 2 rồi sau đó được chuyển giao nhiệm vụ thành tàu huấn luyện bắn pháo vào năm 1916. Suwo bị giải giáp theo điều khoản hiệc ước Washington rồi cuối cùng bị tháo dỡ vào năm 1923.[77]

TàuVũ khíGiápTrọng tải choáng nướcĐộng cơ đẩyPhục vụ
Đặt lườnĐưa vào biên chếSố phận
Sagami

(相模, Tương Mô)

2 × 2

10 in (254 mm)[78]

9 in (229 mm)[78]13.810 tấn Anh (14.030 t)[78]2 trục, 2 động cơ hơi nước,

18 kn (33 km/h; 21 mph)[78]

21 tháng 11

năm 1895[73]

2 tháng 1

năm 1905[79]

Đâm phải mìn ngoài khơi Port Said, Ai Cập

4 tháng 1 năm 1917[80]

Suwo

(周防, Châu Phòng)

13.320 tấn Anh (13.530 t)[78]21 tháng 2

năm 1899[74]

2 tháng 1

năm 1905[81]

Có khả năng bị tháo dỡ

khoảng giữa năm 1922–23[77]

Hizen

Hizen tại cảng
TàuVũ khíGiápTrọng tải choáng nướcĐộng cơ đẩyPhục vụ
Đặt lườnĐưa vào biên chếSố phận
Hizen

(肥前, Phì Tiền)

2 × 2

12 in (305 mm)[82]

9 in (229 mm)[83]12.780 tấn Anh (12.985 t)[84]2 trục, 2 động cơ hơi nước,

18 kn (33 km/h; 21 mph)[84]

29 tháng 7

năm 1899[85]

2 tháng 1

năm 1905[86]

Dùng làm tàu mục tiêu,

25 tháng 7năm 1924[86]

Iwami

Iwami tại cảng với một thủy phi cơ trên không
TàuVũ khíGiápTrọng tải choáng nướcĐộng cơ đẩyPhục vụ
Đặt lườnĐưa vào biên chếSố phận
Iwami

(石見, Thạch Hiện)

2 × 2

12 in (305 mm)[87]

7,64 in (194 mm)[88]14.151 tấn Anh (14.378 t)[89]2 trục, 2 động cơ hơi nước,

18 kn (33 km/h; 21 mph)[90]

1 tháng 6

năm 1900[89]

28 tháng 5

năm 1905[91]

Dùng làm tàu mục tiêu,

10 tháng 7 năm 1924,[92]

Lớp Katori

Kashima ngay sau khi gia nhập vào năm 1906
TàuVũ khíGiápTrọng tải choáng nướcĐộng cơ đẩyPhục vụ
Đặt lườnĐưa vào biên chếSố phận
Katori

(香取, Hương Lấy)

2 × 2

12 in (305 mm)[93]

9 in (229 mm)[93]15.950 tấn Anh (16.210 t)[94]2 trục, 2 động cơ hơi nước,

18 kn (33 km/h; 21 mph)[94]

27 tháng 4

năm 1904[95]

20 tháng 5

năm 1906[95]

Bán phế liệu,

tháng 4 năm 1924[96]

Kashima

(鹿島, Lộc Đảo)

16.400 tấn Anh (16.700 t)[94]29 tháng 2

năm 1904[95]

23 tháng 5

năm 1906[95]

Tháo dỡ,

khoảng năm 1924–25[97]

Lớp Satsuma

Bưu thiếp in hình Satsuma tại cảng
TàuVũ khíGiápTrọng tải choáng nướcĐộng cơ đẩyPhục vụ
Đặt lườnĐưa vào biên chếSố phận
Satsuma

(薩摩, Tát Ma)

2 × 2
12 in (305 mm)

6 x 2
10 in (254 mm)[98]

9 in (229 mm)[98]19.372 tấn Anh (19.683 t)[98]2 trục, 2 động cơ hơi nước,

18,5 kn (34,3 km/h; 21,3 mph)[98]

15 tháng 5

năm 1905[43]

25 tháng 3

năm 1910[43]

Dùng làm tàu mục tiêu,

7 tháng 9năm 1924[43]

Aki

(安芸, An Vân)

20.100 tấn Anh (20.400 t)[98]2 trục, 2 tuabin hơi nước,

20 kn (37 km/h; 23 mph)[98]

15 tháng 3

năm 1906[43]

11 tháng 3

năm 1911[43]

Dùng làm tàu mục tiêu,

2 tháng 9năm 1924[43]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Danh_sách_thiết_giáp_hạm_của_Nhật_Bản http://combinedfleet.com/Shinano.htm http://combinedfleet.com/yamato.htm http://www.combinedfleet.com/Asahi_t.htm http://www.japantimes.co.jp/text/fd20111218a1.html //www.worldcat.org/issn/0043-0374 http://www.dorsetecho.co.uk/features/lookingback/9... https://query.nytimes.com/gst/abstract.html?res=9B... https://archive.is/20130420063343/http://www.dorse... https://en.wikipedia.org/wiki/File:Battleship_mika...